|
|||
GS. TSKH Cao Tiến Huỳnh- Chủ nhiệm chương trình cho biết, một số đề tài nghiên cứu đã đạt đến trình độ công nghệ trong khu vực như hệ thống tự động giám sát (SCADA) phục vụ an toàn lao động trong khai thác hầm lò với các máy tự động đo nồng độ khí mê tan, khí CO2 của dự án sản xuất thử nghiệm KC.03.DA02/06-10. Công nghệ này đã được ứng dụng rộng rãi trong ngành khai thác hầm lò của Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam với thời gian hạn chế nhưng tổng giá trị các hợp đồng chuyển giao này cho các cơ sở sản xuất ngành khai thác than tính cho đến nay đạt trên 30 tỷ đồng. Giá thành của máy và của hệ thống chỉ bằng 40 – 50% giá nhập ngoại sản phẩm cùng loại.
Với đề tài Nghiên cứu thiết kế, chế tạo hệ thống tự động giám sát Video và điều khiển từ xa trên cơ sở công nghệ cao có sử dụng Linux (hệ điều hành mã nguồn mở) (KC.03.01/06-10) cũng cho kết quả rất ấn tượng. Sau khi được áp dụng ở một số cơ sở, Bộ Giao thông Vận tải đã quyết định chỉ định về việc áp dụng hệ thống này để phục vụ giám sát và điều hành giao thông đường bộ tuyến Cầu Giẽ- Ninh Bình.
Bên cạnh đó, các thiết bị và hệ thống tự động hóa cho các công nghệ nung luyện do dự án sản xuất thử nghiệm KC.03/06-10 chế tạo đã và đang được áp dụng hiệu quả tại làng sứ truyền thống Bát Tràng.
Hầu hết, các đề tài thuộc chương trình KC.03/06-10 bao gồm toàn bộ các thiết bị thành phần của hệ thống do các đề tài nghiên cứu thiết kế, chế tạo trên cơ sở linh kiện công nghệ mới, đạt các chỉ tiêu kỹ thuật tương đương sản phẩm cùng loại của các nước tiên tiến với giá thành giảm từ 30 – 60% nhập ngoại.
Điều đặc biệt của các hệ thống, thiết bị này là ngoài các chức năng tương như sản phẩm nhập ngoại thì nó còn có ưu điểm nổi bật là các chức năng và tính năng của các sản phẩm nghiên cứu sẽ có sự đổi mới phù hợp điều kiện thực tế Việt Nam, GS.TSKH Cao Tiến Huỳnh chia sẻ.
Hoàng Anh – Phương Nga |