|
|||
Sau 5 năm thực hiện, Chương trình đã tạo ra 498 sản phẩm đạt chỉ tiêu đặt ra cả về số lượng và chất lượng, công bố 187 công trình khoa học trên các tạp chí trong nước và 33 công trình trên các tạp chí quốc tế. PGS. TS. Trương Nam Hải – Phó Chủ nhiệm Chương trình cho biết, 77,42% nhiệm vụ nghiên cứu có kết quả là các công nghệ ứng dụng trong các ngành kinh tế - kỹ thuật ở giai đoạn tiếp theo, 32,26% nhiệm vụ nghiên cứu có kết quả được ứng dụng phục vụ trực tiếp cho sản xuất kinh doanh, 25,81% nhiệm vụ nghiên cứu có kết quả được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất, đời sống hoặc được thương mại hóa. Các chỉ tiêu này đều vượt mức so với kế hoạch đề ra.
PGS. TS. Trương Nam Hải – Phó Chủ nhiệm Chương trình báo cáo kết quả Nhiều sản phẩm được tạo ra trong Chương trình được đánh giá cao về công nghệ như công nghệ xử lý nước thải sinh hoạt đô thị, đồng bộ từ phát triển công nghệ, thiết kế, gia công, chế tạo thiết bị chủ chốt khai thác vận hành và bảo dưỡng hệ thống; công nghệ khí canh với các bộ khí canh nhỏ tự thiết kế và lắp đặt; văc-xin tụ huyết trùng chủng P52 phòng bệnh tụ huyết trùng cho trâu bò được sản xuất trên quy mô công nghiệp;… Một số công nghệ, thiết bị đã bước đầu thay thế các sản phẩm trước đây nhập nội như hệ thống thiết bị và công nghệ xử lý kị khí tự động hóa nước thải công nghiệp thực phẩm của dự án KC.04.DA01/06-10; các giống hoa lan Hồ điệp được sản xuất trên quy mô công nghiệp của dự án KC.04.DA09/06-10; bộ KIT giám định gen của đề tài KC.04.08/06-10,… Các sản phẩm của Chương trình bước đầu được ứng dụng chuyển giao cho các cơ quan, doanh nghiệp, địa phương,… góp phần vào sự phát triển của nền khoa học hiện đại, nâng cao hiệu quả kinh tế, ổn định an ninh, chính trị. Đặc biệt, một số lĩnh vực như công nghệ gen, công nghệ tế bào, công nghệ enzym-protein, công nghệ vi sinh,… là những lĩnh vực được ưu tiên hàng đầu khi lựa chọn các nhiệm vụ nghiên cứu đưa vào thực hiện. Vì thế, các sản phẩm thuộc các lĩnh vực này đã có những bước tiến vượt bậc về trình độ công nghệ, đạt mức độ tiên tiến so với các nước trong khu vực và trên thế giới, có khả năng ứng dụng cao trong thực tiễn sản xuất cũng như được xem là công nghệ nền cho các ngành nghiên cứu khác. Được biết, Chương trình đã thực hiện 24 đề tài, 7 dự án trong thời gian 5 năm (2006 – 2010) với những mục tiêu chính như: phát triển, nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ; làm chủ công nghệ nền của công nghệ sinh học (công nghệ gen, công nghệ enzym-protein, công nghệ vi sinh, công nghệ tế bào, công nghệ nano sinh học); ứng dụng và phát triển công nghệ nền của công nghệ sinh học, tạo sản phẩm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt các lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp, y dược, công nghiệp, môi trường, an ninh quốc phòng. Nguyễn Hạnh |